Thứ Sáu, 20/06/2025 13:30
Ngày nay, trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới có một điểm chung là coi trọng văn hóa. Hầu hết các nước lớn hay nhỏ đều có quan điểm thống nhất cho rằng, các yếu tố văn hóa là những điều kiện thiết yếu cho một sự phát triển bền vững; là một bộ phận không thể tách rời của các chiến lược phát triển và coi nhiệm vụ bảo vệ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề sống còn, nhất là trong thời đại toàn cầu hóa, quốc tế hóa hiện nay. Bài học kinh nghiệm rút ra từ sự phát triển mạnh mẽ và vững chắc của Nhật Bản, của các nước công nghiệp mới (NICs) đã chỉ rõ, bản sắc văn hóa dân tộc đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển chính trị, kinh tế, khoa học - kỹ thuật; quốc phòng - an ninh và các vấn đề xã hội, động lực quyết định cho sự đi lên được bắt nguồn từ văn hóa, nằm trong văn hóa; sự phát triển được đặt trên nền tảng các giá trị bền vững của văn hóa dân tộc.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, Đảng ta đã khẳng định: “Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”. Bản sắc văn hóa dân tộc là sự kết tinh những giá trị tinh thần cốt lõi và đặc sắc của dân tộc mang tính bền vững, có một ý nghĩa thiêng liêng, cao quý, là tài sản vô giá của dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là sự lắng đọng của khí thiêng sông núi, được hun đúc qua bao thăng trầm của lịch sử, với bao mồ hôi, nước mắt, kể cả máu của bao thế hệ đã đổ xuống, để rồi tỏa sáng, làm điểm tựa cho cả dân tộc và mỗi con người Việt Nam đi lên trong cuộc đấu tranh vì tự do và hạnh phúc. Tuy nhiên, bản sắc ấy không bất biến tuyệt đối mà luôn đóng vai trò “bộ lọc” tinh nhạy để lựa chọn, tiếp thu và cải biến những tinh hoa của văn hóa nhân loại trở thành cái bên trong, thành sức mạnh nội sinh và đủ sức ngăn cản, gạt bỏ những yếu tố tiêu cực, lạc hậu ảnh hưởng đến đời sống dân tộc. Trong lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam đã có nhiều cuộc giao lưu, tiếp xúc và cả “đụng độ” với các nền văn hóa Đông Nam Á chủ yếu qua con đường truyền bá đạo phật từ ấn Độ sang; với văn hóa Trung Hoa qua Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc và với văn hóa phương Tây qua công cuộc “Khai hóa văn minh” của thực dân Pháp và truyền bá “chủ nghĩa tự do” của đế quốc Mỹ nhưng văn hóa Việt Nam, một mặt vừa giữ vững được bản sắc dân tộc, mặt khác, tiếp tục tự làm giàu hơn, phong phú và rõ nét hơn trên con đường hòa nhập với thế giới bên ngoài, hòa nhập nhưng không hòa tan, không đánh mất mình.
Nhìn lại những giá trị văn hóa được kết tinh trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, không nghi ngờ gì, rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam đã biết hấp thụ tư tưởng “từ bi” của đạo Phật để nuôi dưỡng lòng nhân ái bao dung, nhưng không chấp nhận sự “nhẫn nhục”, “trì giới”; tiếp thu tư tưởng “Nhân - Trí - Dũng” của Nho giáo để giết giặc, trừ gian và bảo vệ cuộc sống yên lành của muôn dân, để giáo dục đạo đức, nhân văn cho các thế hệ; chứ không nhất nhất theo “Tam cương, ngũ thường”, “tam tòng, tứ đức” một cách mù quáng; tiếp thu triết lý sống “hòa cùng vạn vật” của Đạo giáo để giữ gìn cảnh quan môi trường; tiếp thu tinh thần “tự do, bình đẳng, bác ái” của văn hóa phương Tây nhưng không chấp nhận sống tự do vô chính phủ, chủ nghĩa cá nhân cực đoan, vị kỷ tầm thường…
Bản sắc văn hóa Việt Nam thể hiện hết sức phong phú, đa dạng trong muôn mặt cuộc sống; ở ngay những sinh hoạt hằng ngày của con người đến những hoạt động mang tầm vóc lớn của quốc gia như thể chế chính trị, tổ chức nhà nước, đường lối đối nội, đối ngoại… Do đó, con người Việt Nam dù ở bất cứ đâu vẫn là người Việt Nam với những nét đặc sắc riêng về văn hóa, mà là chủ nghĩa yêu nước và lòng nhân ái, bao dung, thái độ coi trọng cộng đồng, sống vì cộng đồng, coi trọng đạo đức, coi trọng học thức. Hiếm có một dân tộc nào trên thế giới, yêu nước và quyền được chiến đấu, hy sinh vì nhân dân, vì Tổ quốc trở thành điều thiêng liêng nhất của mỗi người từ trẻ đến già, không phân biệt nam, nữ, tôn giáo, tín ngưỡng…; lòng biết ơn, lối sống bao dung, đùm bọc lẫn nhau “lá lành đùm lá rách”, “chị ngã em nâng”, “uống nước nhớ nguồn” đã trở thành lẽ sống của hàng triệu triệu người dù sống ở trong nước hay ở nước ngoài. Nét đẹp truyền thống ấy là chất keo kết dính các thành viên trong cộng đồng thành khối thống nhất, tạo thành sức mạnh để dân tộc ta tồn tại và phát triển, vượt qua những thử thách cam go của lịch sử.
Ngoài những giá trị tinh thần cốt lõi và đặc sắc, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam còn được thể hiện ở sự phong phú, đa dạng của các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như di tích lịch sử văn hóa, miếu mạo, chùa chiền, phong tục tập quán, nghệ thuật… Những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể luôn cần được bảo vệ và phát huy, làm điểm tựa cho con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Vì vậy, Đảng ta đã xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” và “mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa Việt Nam lành mạnh cho sự phát triển xã hội”.
Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan đã, đang và sẽ tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có văn hóa. Trong bối cảnh bị chi phối bởi toàn cầu hoá kinh tế, đã xuất hiện sự dung hoà giữa các nền văn hóa dân tộc, các nền văn minh trên toàn thế giới. Mặt khác, sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Mỹ và các nước tư bản phương Tây bằng sức mạnh kinh tế, khoa học và công nghệ hiện đại và cả quân sự luôn có tham vọng áp đặt cái gọi là những giá trị văn hóa như “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” của họ cho thế giới. Do đó, vấn đề đặt ra trước mỗi dân tộc là phải bảo vệ cho được bản sắc văn hóa riêng của mình để làm hành trang tự đi lên theo con đường đã chọn.
Đối với Việt Nam, gần 40 năm đổi mới, thực hiện kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập, đất nước có những bước phát triển nhảy vọt về mọi mặt. Tuy nhiên, trong đời sống xã hội đã xuất hiện không ít những vấn đề bức xúc đáng lo ngại. Nguy cơ chệch hướng về phát triển văn hóa do chạy theo thị hiếu tầm thường, không những làm suy thoái đạo đức, lối sống, mà còn có thể dẫn đến làm biến dạng định hướng chính trị, vi phạm các nguyên tắc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong xã hội hiện nay, có một bộ phận dân cư chạy theo lối sống thực dụng, lãng quên dần giá trị, đạo lý truyền thống, xem nhẹ văn hóa dân tộc, sùng ngoại một cách lai căng, lố bịch. Cùng với tình trạng đó là sự gia tăng các tệ nạn tiêu cực trong xã hội như tham nhũng, hối lộ, cờ bạc, rượu chè… Một bộ phận khác lại có xu hướng khôi phục tất cả các phong tục, tập quán lạc hậu, đặc biệt những hủ tục lạc hậu, lỗi thời như mê tín dị đoan, ông đồng, bà cốt… Những vấn đề bức xúc trên đây đang từng bước pha loãng bản sắc văn hóa Việt Nam, cản trở con đường đi lên của dân tộc. Rõ ràng, thực tiễn đang đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp để vừa bảo vệ, vừa phát huy những giá trị văn hóa góp phần đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh thế giới đầy biến động; vận hội và thách thức, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau. Đảng ta luôn xác định: “Trong quá trình mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập trung xây dựng những giá trị văn hóa mới của văn hóa Việt Nam đương đại, cần đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa của văn hóa thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại”.
Vấn đề quan trọng hàng đầu hiện nay trong việc xác định các chiến lược phát triển và việc lựa chọn, tiếp nhận, chuyển giao và sử dụng công nghệ, vốn, kỹ thuật và các giá trị văn hóa, xã hội từ bên ngoài phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải luôn tính đến sự phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam, phù hợp với con người Việt Nam, góp phần giải quyết công ăn, việc làm cho nhiều người lao động, góp phần thực hiện mục tiêu định hướng phát triển xã hội nước ta là vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của từng người, từng gia đình và cả cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đồng thời, cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa, hội nhập, cần đặc biệt coi trọng giải quyết các vấn đề xã hội. Thực tiễn những năm qua đã chỉ ra rằng, quá trình phát triển công nghiệp, quá trình đô thị hóa tuy đã và đang mang lại những lợi ích trực tiếp, to lớn cho con người, nhưng cũng gây ra tình trạng quá tải về dân số, môi trường, y tế, giáo dục và đặc biệt là những hậu quả tai hại như bệnh tật, thất nghiệp, ma túy và các tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, cần có sự phát triển hợp lý, coi trọng hiệu quả kinh tế nhưng phải góp phần bảo vệ môi trường, xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển công nghiệp, đô thị; công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cần giải quyết hài hòa các yếu tố: số lượng và chất lượng sống; đời sống vật chất và đời sống tinh thần; mức sống cao và lối sống lành mạnh cho các thế hệ, trước hết là lớp trẻ.
Từ thực tiễn cuộc sống và những giá trị văn hóa dân tộc, cần thiết xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống chuẩn mực giá trị văn hóa mới, phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa, giao lưu với bên ngoài. Đặc biệt là phải biết khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí vươn lên chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, làm cho dân giàu, nước mạnh. Đồng thời, đẩy mạnh các cuộc vận động xây dựng đời sống mới ở khu dân cư; khu phố văn minh; thôn, xóm, bản, làng văn hóa; xây dựng các tập thể lao động tiên tiến… và đấu tranh kiên quyết với các biểu hiện trái với truyền thống dân tộc, với luân thường đạo lý, nhất là khi du nhập giá trị văn hóa từ bên ngoài vào. Tích cực xây dựng phải luôn đi đôi với chống một cách kiên trì, khéo léo. Cần quan tâm việc tôn tạo, giữ gìn và phát huy vai trò các di tích lịch sử văn hóa dân tộc. Thông qua các di tích lịch sử văn hóa phải làm cho các thế hệ hiểu được bề dày lịch sử cả tư tưởng, thế giới quan, nhân sinh quan, cả nhân cách, tài năng, óc thẩm mỹ và lối sống của dân tộc trong một thời kỳ nhất định; tự hào về cội nguồn, truyền thống và những giá trị vật chất, tinh thần cao quý của dân tộc để từ đó mà đi lên, mà phấn đấu. Việc tôn tạo, giữ gìn và phát huy các di tích lịch sử văn hóa có ý nghĩa đặc biệt đối với quá trình phát triển dân tộc, trước mắt là đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH TỈNH BẮC NINH
Bản quyền thuộc Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bắc Ninh
Địa chỉ: 81 Lê Văn Thịnh, phường Suối Hoa, thành phố Bắc Ninh
Số điện thoại liên hệ: 0222 3810 215
Email: bantuyengiaotdbn@gmail.com